Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Chuyện chỉ có ở Hát Môn


Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Năm Kiến Vũ 19, màu xuân, tháng giêng, Trưng Nữ Vương cùng em là Trương Nhị chống lại quận nhà Hán, thế cô, đều thua hết... Người địa phương thương mến làm đền thờ phụng, đền ở xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc" (tức huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay - TG). Đến đất phát tích và nơi hy sinh oanh liệt của Hai Bà, chúng tôi biết thêm nhiều chuyện lạ về các dòng họ ở đây. Có mối liên hệ nào giữa hai việc này chăng?

Ông Kim Mạo, làm thủ từ đền thờ Hai Bà Trưng đã 10 năm nay, hướng dẫn chúng tôi dâng hương cho Hai Bà. Trong không khí u tịch, ngước nhìn bức hoành phi bốn chữ "Lạc hùng chính thống" lại nhớ đến hùng khí một thời "Đồng trụ triết hoàn Giao Lĩnh trĩ / Cấm Khê doanh hạc Hát long trường" (Đồng trụ gãy hay còn, núi Lĩnh Nam đời đời cao ngất / Cấm Khê với hay đầy, dòng Hát giang mãi mãi vươn dài).
Chuyện kể:
"Khi Hai Bà Trưng bại trận mất tích rồi, dân sở tại dựng đền thờ ở xã Hát Môn. Thần rất thiêng. Phải kỳ đại hạn, vua Anh Tông nhà Lý (1138 - 1175) sai nhà sư tên Tĩnh Giới đến đảo vũ, quả nhiên được mưa. Trời mát, vua vừa thiu thiu ngủ, mông thấy Hai Bà đội mũ hoa sen, mặc áo xanh, thắt đai và quân ky theo hầu, tự sau đám mây tiến qua trước mặt mà nói: "Chúng tôi là hai chị em họ Trưng phụng mệnh trời đi làm mưa". Vua tỉnh dậy bèn cho sửa lại ngôi đền, dâng lễ cúng và khấn rước về kinh sư. Ít lâu sau, Hai Bà lại báo mộng xin vua cho dựng đền ở quê hương lâu nay. Vua ưng thuận".
Ngôi đền đặt trên đất tứ linh (Ấn, Long, Quy, Phụng) đẹp và có tiếng là linh thiêng, Người thủ từ tiếp tục câu chuyện: "Xã có 7.000 dân thì gần 4.000 người họ Kim còn lại là 32 dòng họ khác". "Sao ông Nguyễn Kim Khoa có hai người con thì con trai là Nguyễn Kim Tảo mà con gái lại là Kim Thị Thắm?" - tôi gợi chuyện. "Chuyện đó cũng lạ lắm!" - người thủ từ nói giọng đầy bí ẩn, buộc chúng tôi không thể không tìm hiểu ngọn nguồn.
*
Ông Nguyễn Quốc Thắng, Chủ tịch UBND xã cho biết lệ làng lạ lắm: "Nếu sinh con trai, con tôi phải viết tên là Nguyễn Quốc A, còn sinh con gái, sẽ đặt là Quốc Thị B". Tôi áy náy: "Lạ nhỉ?". Ông Thắng tiếp: "Những dòng họ lớn ở Hát Môn như Nguyễn Kim, Nguyễn Quốc, Nguyễn Đình... nếu viết đúng như thông thường phải là Kim Nguyễn, Quốc Nguyễn, Đình Nguyễn...". Bà Đặng Thị Lung, 67 tuổi, cho biết: "Bố tôi là Trần Đặng Lân, mẹ là Duy Thị Bích (vì ông ngoại tôi là Trần Duy Thuận). Chồng tôi là ông Nguyễn Kim Khoa. Tôi có hai con. Con trai Nguyễn Kim Tảo, con gái Kim Thị Thắm". Ông Đình Nguyễn Trường (Nguyễn Đình Trường) làm công an xã cho biết cụ thể hơn: "Từ năm 1990 trở về trước, 100% nam giới ở xã không mang họ ở đầu, vẫn khai sinh theo "lệ" đệm, họ và tên, như tôi. Từ năm 1990 trở lại đây, 75% số trẻ sinh ra phải khai sinh theo đúng quy định họ, đệm, tên, chẳng hạn như con tôi phải Nguyễn  Đình Thường. Nhưng vẫn còn 25% đặt theo lệ cũ nên ở đây cũng gây ra lắm chuyện phiền hà.
 Ông ví dụ: Ông Nguyễn Kim Tước có cô con gái là Kim Thị Nga, hiện làm cán bộ y tế xã, năm 1998 để được đi học, cô phải lên tận UBND tỉnh để xin đổi họ cho giống bố ở trong hồ sơ. Chuyện nhà ông Thiêm mới phiền hơn: Ông Nguyễn Kim Thiên đi bộ đội, thương binh hạng 2/4, vợ chồng ông sinh được cháu gái tên là Kim Thị Lan, năm nay cháu thi vào PTTH, nhưng không được cộng điểm ưu tiên vì bố là Nguyễn sao có con lại họ Kim? Tôi phân vân: "Vậy rồi sao?". "Ông Thiêm lên phòng LĐ-TB-XH xin xác nhận, họ bảo ông sang Sở Tư pháp, nhưng sở cũng không dám ký vì làm sao lại xác nhận cô gái họ Kim lại con ông họ Nguyễn. Ông Thiêm phải đội mưa lên gặp ông Ngô Thanh Kỳ, Trưởng phòng VH-TT huyện là bạn chiến đấu cũ nhờ ông Kỳ viết giấy bảo lãnh cho. Thật phiền hà cho cái lệ làng".
*
Có thể nói, chuyện tên họ của các dòng tộc ở Hát Môn, theo hiểu biết của chúng tôi, là chuyện "độc nhất vô nhị" trong 900 dòng họ ở nước ta. Cách đặt tên họ theo lệ làng Hát Môn quả đã gây ra nhiều phiền toái, nhưng không hiểu vì sao người dân vẫn chấp nhận. Chủ tịch xã Nguyễn Quốc Thắng hạ một câu nghe rất ... hồn nhiên: "Phong tục ở đây nó thế mà anh!". Còn có người lại bảo: Sau khi Hai Bà Trưng hy sinh, tướng Hán là Mã Viện vẫn còn ấm ức lắm. Đất Hát Môn là nơi phát tích, cũng là nơi Hai Bà hy sinh lẫm liệt nên sợ giặc Hán trả thù con gái, vì thế dân trong vùng đã đổi hết họ cho con gái mình, thế mới có chuyện như bây giờ. Lại có người cho rằng, vì quan niệm con gái là "nữ nhân ngoại tộc" nên mới không cho lấy họ của cha. Lập luận này xem ra không có lý, vì là đất Hai Bà dấy nghiệp, Hai Bà là niềm tự hào, được thờ như thần thì làm sao có thể coi con gái là "nữ nhân ngoại tộc"? Người khác thì nói: Do trong làng, trong xã có nhiều họ, mỗi họ có nhiều nhánh, nhiều chi, nên đặt ra chữ đệm khác nhau để phân biệt. Cứ thế dần dần để khẳng định chi của mình, người ta nhận luôn tên đệm làm họ chính... Dù nói thế nào, lý giải thế nào, chúng tôi vẫn cứ áy náy, không thỏa...
*
Hầu hết gia phả của các dòng họ bị mất do trận vỡ đê năm Ất Dậu (1945) và do chiến tranh, nếu có, cũng chỉ mới viết sau 1945. Hỏi người cao niên nhất làng (91 tuổi) cũng chỉ biết "lệ này đã có từ xưa". Khảo lại các văn bia, chỉ thấy thế này:
Bia "Hưng công tự tạo Bảo lâm tự bi" (1693) có ghi tên 100 người xã tiến cúng, tất thảy có 29 họ như Nguyễn Tiến, Nguyễn Quang, Nguyễn Khắc, Trần Văn, Trần Công... Trong bia có ghi 31 nữ giới cũng có các họ như nam giới, như Trần Thị Duệ, Trần Thị Mai, Trần Thị Ngân... Còn bia "Nguyễn Kim tộc bi ký" ghi chuyện con cháu đóng góp xây dựng nhà thờ tổ, mua ruộng tế lại cho thấy rõ từng chi trong họ: Chi thứ nhất Nguyễn Kim (Nguyễn Kim Nghĩa, Nguyễn Kim Huân...), chi thứ hai Nguyễn Năng (Nguyễn Năng Trọng...). Khảo sát thêm trên bia ở các đền thờ, từ đường... có thể thấy thêm: Các dòng họ cư ngụ ở Hát Môn (chỉ biết từ thế kỷ 17) như Nguyễn, Trần, Đình, Phan, Phùng, Vũ... sau này phát triển ra nhiều chi, mỗi chi phân biệt nhau bằng chữ đệm, sau này lớn dần thành họ, ví dụ như họ Nguyễn đã nói ở trên. Và (có thể) vì thế cho nên, đối với con gái, sợ không phân biệt rõ họ của mình mà người ta dùng chữ đệm làm họ. Trở lại trường hợp cô Kim Thị Thắm, con ông Nguyễn Kim Khoa, nếu để là Nguyễn Thị Thắm thì không phân biệt được cô Thắm thuộc họ Nguyễn Kim hay Nguyễn Năng... nên đặt là Kim Thị Thắm cho... chắc chuyện. Nhưng sao không đặt Nguyễn Thị Kim Thắm hay Nguyễn Kim Thị Thắm? Hay vì người dân nông thôn không quen đặt họ tên bốn chữ? Với nam giới, để khẳng định luôn, người ta giản lược họ ghép như Nguyễn Kim thành họ Kim cho gọn (?). Ông thủ từ đền thờ Hai Bà Trưng khi được hỏi đã khẳng định ngay: "Tôi họ Kim, Kim Mạo, viết đủ là Kim Nguyễn Mạo". Rắc rối thay!
*
Hát Môn là một làng cổ, gắn liền với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng cách đây gần 2.000 năm. Và thật mừng thay, mỗi di tích còn lại đều được bảo vệ chu đáo. Làng thờ hai thần Trưng Trắc, Trưng Nhị. Lễ sinh nhật ngày 4/8 và lễ hóa ngày 8/3. Các ngày lễ khác là 6/3, 4/6 và mùng 4 tháng 9. Chuyện kể: Khi Mã Viện đuổi ráp, Hai Bà chỉ kịp ăn một đĩa bánh trôi và hai quả muỗi. Hạt vứt ra mọc thành hai cây muỗi lớn, sau này bóng muỗi sum xuê tỏa mát ngôi đền... Trong đền thờ chỉ sơn một màu đen, kiêng màu đỏ, tế lễ, hội hè đều không được mặc áo đỏ. Vì sao? Rồi chuyện lễ bánh trôi, gốc tích thế nào? Và chính xác đền được xây dựng khi nào? Tất cả đều còn là bí mật và vì thế nó càng trở nên hấp dẫn các nhà nghiên cứu. Riêng chuyện các dòng họ ở Hát Môn, nếu lưu tâm nghiên cứu hẳn sẽ còn nhiều điều thú vị hơn.
o0o
Chúng tôi xin ông thủ từ một gàu nước từ cái giếng, nơi thường dùng lấy nước cúng tế hàng năm, nghĩ đến 23 tháng chạp sắp đến, kỳ lễ hội rước bài vị Hai Bà trên song loan đến ngôi miếu gần đây để làm lễ mộc lục, uống vào, nước trong, mát, lạ khác thường. Không biết có phải do cảm giác của bao nhiêu điều bí ẩn trong từng con người, từng thước đất của làng Hát Môn tạo nên hay không?
Hà Tây, 12/1999

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét